image banner
Lịch sử hình thành và phát triển Thị trấn Kiến Đức
Sự phát triển và hình thành   

I. VÙNG ĐẤT VÀ CON NGƯỜI

1. Sự hình thành địa giới thị trấn Kiến Đức qua các thời kỳ

Thị trấn Kiến Đức là trung tâm huyện Đắk RLấp, tỉnh Đắk Nông được thành lập ngày 27/7/1999 theo Nghị định số 61/1999-NĐ/CP của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trên cơ sở chia tách xã Kiến Đức thành thị trấn Kiến Đức và xã Kiến Thành.

Trước khi có tên địa danh Kiến Đức ra đời, theo Sắc lệnh của chính quyền Sài Gòn ngày 22/10/1956 về việc chia lại địa giới miễn Nam thành 22 tỉnh, địa bàn Kiến Đức ngày nay là một bộ phận thuộc huyện Kiến Hòa, tỉnh Thủ Dầu Một.

Ngày 23/01/1959, chính quyền Việt Nam Cộng hòa ra Sắc lệnh số 24-NV thành lập tỉnh Quảng Đức. Tỉnh Quảng Đức được thành lập trên cơ sở cắt toàn bộ huyện Đắk Mil của tỉnh Đắk Lắk từ phía nam cầu 14 vào đến Đắk Song gọi là Đức Lập; cắt một phần huyện Kiến Hòa của Thủ Dầu Một thành lập quận Kiến Đức; lấy vùng phía tây đường 12 lập quận Khiêm Đức và một phân khu hành chính ở Blaosiêng lập phân khu hành chính Đức Xuyên.

Tháng 12/1960, Trung ương Đảng quyết định thành lập tỉnh Quảng Đức với 4 huyện (mật danh là K) gồm: K2 (Đức Lập), K4 (Đức Xuyên), Kó (Khiêm Đức), K8 (Kiến Đức), toàn bộ thị trấn Kiến Đức ngày nay thuộc K8.

Từ năm 1961 đến năm 1966, địa bàn Kiến Đức ngày nay trải qua một số lần tách, nhập, đổi tên cùng với sự thay đổi địa giới hành chính của huyện Kiến Đức, cụ thể: năm 1961, phía Tây và Bắc của K8 tách khỏi tỉnh Quảng Đức để nhập về tỉnh Phước Long lấy mật danh là K5; đầu năm 1963, nhập K5 với K8 thành K58 thuộc tỉnh Phước Long; tháng 10/1963, K58 nhập về tỉnh Lâm Đồng và một thời gian sau đó về lại tỉnh Phước Long. Đến tháng 10/1966, theo quyết định của Trung ương, huyện Kiến Đức (K58) chuyển trở lại thuộc tỉnh Quảng Đức lấy tên huyện K8 (bao gỒm toàn bộ địa bàn Đắk R'Lắp và Tuy Đức ngày nay).

Tháng 5/1971, giải thể tỉnh Quảng Đức, giao Khiêm Đức, Kiến Đức về tỉnh Lâm Đồng; huyện Đức Xuyên nhập về Đức Lập thuộc tỉnh Đắk Lắk. Tháng 4/1974, Kiến Đức nhập về tỉnh Phước Long.

Tháng 5/1975, Kiến Đức là một huyện thuộc tỉnh Phước Long, gồm 7 xã: Đạo Nghĩa, Quảng Hưng, Quảng Trực, Quảng Tân, Quảng Tín, Nhân Hòa, Nhân Nghĩa. Đến tháng 11/1975, tỉnh Quảng Đức sáp nhập vào tỉnh Đắk Lắk. Huyện Khiêm Đức sáp nhập với huyện Kiến Đức thành huyện Khiêm Kiến Đức. Ngày 15/01/1976, Ban Thường vụ Huyện ủy đã có cuộc họp để thống nhất các nhiệm vụ mới, trong đó có việc đổi tên huyện Khiêm Kiến Đức thành huyện Đăk Nông.

Ngày 25/9/1985, Tỉnh ủy Đắk Lắk ra quyết định thành lập Đảng bộ huyện Kiến Đức gồm các tổ chức cơ sở Đảng trên địa bàn Kiến Đức được tách ra từ huyện Đắk Nông và các tổ chức mới hình thành trong huyện; đồng thời chỉ định Ban Cán sự Đảng huyện Kiến Đức gồm 13 đồng chí, do đồng chí Lê Thanh Sơn, Bí thư Huyện ủy Đắk Nông làm Bí thư Ban Cán sự, đồng chí Nguyễn Bá Anh, Ủy viên Ban Thường vụ Huyện ủy Đắk Nông làm Phó Bí thư Ban Cán

sự Đảng. Sau đó, qua nghiên cứu, thời Pháp thuộc, đồng bào các dân tộc vùng Đắk R'Tíh trước đây dưới ngọn cờ khởi nghĩa do NTrang Lơng lãnh đạo, trong một trận đánh đã anh dũng chiến đầu tiêu diệt tướng Hăngrimet và đồn giặc Pháp tại đầu nguồn ngọn suối Đắk R' Lắp. Chiến công vang dội ấy mãi khắc ghi vào núi rừng và trong lòng nhân dân nơi đây. Theo nguyện vọng của nhân dân và chính quyền

địa phương, Chính phủ, Quốc hội đã đồng ý đổi tên huyện Kiến Đức thành huyện Đắk R Lắp.

Ngày 22/02/1986, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 19-QĐ/HĐBT về thành lập huyện Đắk Nông và huyện Đắk R'Lấp thuộc tỉnh Đắk Lắk. Huyện Đắk R'Lắp, gồm 4 xã: Đạo Nghĩa, Quảng Tân, Quảng Trực, Quảng Tín. Khi huyện Đắk R'Lấp mới thành lập, khu vực Kiến Đức trực thuộc xã Quảng Tân và một phần xã Đạo Nghĩa.

Ngày 01/7/1988, xã Kiến Đức được thành lập, sau đó thành lập Chỉ bộ Kiến Đức. Xã Kiến Đức lúc này có diện tích tự nhiên là 3.200 ha, dân số khoảng 710 hộ với 2,679 khẩu, chia làm 5 thôn, gồm; thôn1,2,3,4,5.

Ngày 27/7/1999, thực hiện Nghị định số 61/1999/NĐ-CP của Chính phủ về việc thành lập thị trấn huyện ly và xã thuộc các huyện Krông Bông, Đắk R'Lắp, Krông Năng, Krông Búk tỉnh Đắk Lắk. Theo đó, thành lập thị trấn Kiến Đức - thị trấn huyện ly huyện Đắk R'Lắp với 15,6 km° diện tích tự nhiên và 4.574 nhân khẩu của xã Kiến Đức.

Là cửa ngõ cực nam của Tây Nguyên, Kiến Đức có vị trí chiến lược quan trọng cả về kinh tế, văn hóa, xã hội và an ninh quốc phòng, là điểm cuối của Nam Tây Nguyên, tiếp giáp với Đông Nam Bộ; là nơi ngã ba giao nhau giữa Quốc lộ 14 nối thị xã Gia Nghĩa với thành phố Đồng Xoài (Bình Phước) 90 km, với thành phố Hồ Chí Minh 210 km và các tỉnh Đông Nam Bộ; nối Quốc lộ 14b với huyện Tuy Đức 35 km, Quốc lộ 14c cửa khẩu Bu Prăng 51 km đi Campuchia. Phía bắc thị trấn Kiến Đức giáp xã Quảng Tân (Tuy Đức), phía đông, tây, nam của Kiến Đức giáp xã Kiến Thành.

Đến năm 2016, thị trấn Kiến Đức có diện tích 16,01 km2, với số dân khoảng 10.044 người, Thị trấn chia làm 9 tổ dân phố và bon Đắk B'Lao. Toàn thị trấn có 16 dân tộc cùng sinh sống, có 3 tôn giáo chính là Phật giáo, Công giáo, Tin lành, với 7.651 tín đồ.

2. Điều kiện tự nhiên

Thị trấn Kiến Đức có độ cao trung bình khoảng 700m so với mực nước biển, địa hình chủ yêu là đồi núi, bị chia cắt tương đối mạnh, hơi thoải theo hướng Tây Bắc – Đông Nam. Điểm cao nhất có độ cao 960m. Theo kết quả nghiên cứu, điều tra, thị trấn chủ yếu là đất đỏ bazan, chứa nhiều khoáng sản dưới lòng đất như vàng sa khoáng, đá saphir và chủ yếu là các mỏ Bôxít...

Khí hậu Kiến Đức thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa Cao nguyên Tây Trường Sơn, có hai mùa rõ rệt trong năm: Mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 10 (chiếm tới 857 lượng mưa hàng năm); mùa này thường có gió Tây Nam cấp 2, cấp 3. Mùa khô kéo dài từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, thường có gió Đông Bắc khô lạnh. Lượng mưa trung bình hàng năm khoảng 2.300 - 2.400mm. Nhiệt độ trung

bình hàng năm 23°C.

Kiến Đức có địa hình đồi núi dạng bát úp, chia cắt mạnh bởi các con suối. Do địa hình bị cắt xẻ mạnh nên trên địa bàn Kiến Đức, hệ thống sông, suối khá dày và phân bồ đều khắp. Sau ngày thành lập, Kiến Đức được đầu tư xây dựng 2 đập ngăn nước, tạo nên 2 hồ nước lớn trong khu vực là hồ Đắk B’Lao và hồ Đắk R’Tang có diện tích gần 30ha vừa phục vụ tưới tiêu, sinh hoạt cho nhân dân trong vùng, vừa tạo cảnh quan, môi trường sinh thái cho đô thị trung tâm huyện.

3. Dân cư, văn hóa

Trước khi thực dân Pháp xâm lược Tây Nguyên, cự dân bản địa sinh sống chủ yếu trên địa bàn Kiến Đức là đồng bào M’Nông. Dân tộc M’Nông thuộc ngôn ngữ Môn – Khơ Me. Từ lâu trong lịch sử dân tộc M-Nông đã phân chia cư dân thành nhiều nhóm địa phương như M'Nông Gar, M’Nông Chil, M’Nông Kuênh, M’Nông Piêt, M’Nông Ông Preh, M'Nông Rlâm, M’Nông Noong,... Đồng bào M’Nông trên địa bàn Kiến Đức thuộc nhóm M'Nông Noong.

Đồng bào M'Nông là một trong những cư dân làm nông nghiệp dùng xà gạc và rìu. Kinh tế nương rẫy đóng vai trò chủ yếu, ruộng nước có xuất hiện ở một vài nơi nhưng không đáng kể. Với nền kinh tế nương rẫy là chính nên lương thực chủ yếu trong đời sống của đồng bào là lúa tẻ, ngô, khoai, sắn, bầu bí là những cây lương thực phụ.

Trước đây đồng bào còn mang nặng tập quán du canh, du cư, phương thức canh tác lạc hậu. Đồng bào thường phát rừng làm rẫy trên các sườn đồi hoặc cạnh rừng già với cách; gieo trồng chủ yếu là chọc lỗ tra hạt. Thường mỗi bon canh tác trên một phạm vi nhất định. Ranh giới đất đai được xác định dựa vào những đặc điểm tự nhiên như bìa rừng, dòng sông, con suối…

Ngoài kinh tế sản xuất nương rẫy, trong đời sống của đồng bào, các nghề thủ công và săn bắn hái lượm cũng chiếm phần quan trọng. Một số nghề thủ công truyền thống được phát triển từ xưa đến nay và đạt tới trình độ tỉnh tế như nghề dệt sợi, thêu nhuộm hoa văn trên nền vải, đan lát bằng tre nứa, rèn công cụ lao động...

Sống giữa rừng núi đại ngàn mênh mông, đồng bào M’Nông có tinh thần thượng võ, ý thức độc lập, tự chủ rất cao, có tính có kết cộng đồng bền chặt và có đời sống tỉnh thần phóng khoáng và phong phú; thể hiện qua các lễ hội, phong tục, quan niệm tín ngưỡng khá đa dạng; nhất là qua các luật tục (Phát dôih) và kho tàng văn học dân gian đồ sộ được lưu truyền từ đời này qua đời khác, với các trường ca, truyện cổ, truyện ngụ ngôn... đặc sắc.

Những năm gần đây, với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, kho tàng văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể của đồng bào M’Nông trong tỉnh đã được sưu tầm, gìn giữ, phát huy. Trong đó, Đắk R'Lắp hết sức tự hào là nơi lưu giữ nhiều di sản văn hóa quý giá của người M’Nông. Bên cạnh

các trường ca, truyện cổ, luật tục đã được sưu tầm ghi chép lại, trên địa bàn huyện còn phát hiện được nhiều di vật khảo cồ có giá trị như các bộ cồng chiêng cổ, các công cụ đá, đồ trang sức bằng đá của người tiền sử tìm thấy ở di chỉ Đắk R'Tih và di chỉ Kiến Đức; đặc biệt là bộ Goong lú (đàn đá) có niên đại từ Thiên niên kỷ I trước Công Nguyên đã tìm thấy tại suối Đắk Kar (thuộc buôn Bù Bir - xã Quảng Tín).

Bên cạnh cư dân bản địa lâu đời là đồng bào M’Nông, trên địa bàn Kiến Đức còn có một số dân tộc ít người khác, nhưng đông hơn cả là đồng bào Kinh. Trong thời kỳ thực dân Pháp đánh chiếm và cai trị Đắk Lắk - Tây Nguyên, người Kinh chưa cư trú ở Kiến Đức. Đến thời Mỹ - Ngụy, nằm trong chính sách cưỡng ép di dân lập dinh điền của Mỹ Diệm, một bộ phận đồng bào Kinh từ Quảng Trị, Quảng Nam,  Quảng Ngãi đã bị chính quyền Việt Nam Cộng hòa dồn đưa vào vùng Kiến Đức, hình thành nên các dinh điền Đạo Nghĩa, Doãn Văn, Nhân Cơ và Sùng Đức. Mặc dù kẻ địch đã ra sức chia rẽ Kinh - Thượng nhằm thực hiện âm mưu chia để trị, nhưng trong những năm chiến tranh gian khổ ác liệt, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đồng bào các dân tộc ở Kiến Đức đã đoàn kết một lòng, hình thành nên mối quan hệ khăng khít, giao lưu ảnh hưởng sâu sắc và thắm đượm mối tình đoàn kết Kinh - Thượng. 

Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (1975), trước nhu cầu phát triển kinh tế của đất nước và thực hiện chủ trương phân bổ lại lao động - dân cư trên phạm vi cả nước Kiến Đức đã tiếp nhận hàng ngàn người dân từ Châu Giang, Hưng Yên và nhiều đồng bào các dân tộc từ các tỉnh thành đến sinh cơ lập nghiệp. Vì thế ngày nay Kiến Đức cũng là quê hương chung của nhiều dân tộc, nhiều tôn giáo cùng sinh sống. Tuy mức sống, điều kiện sống của nhân dân còn không ít khó khăn và chưa đồng đều; song dưới sự lãnh đạo của Đảng, đồng bào các dân tộc đã và đang chung sức, chung lòng xây dựng cuộc sống mới, vấn đề đoàn kết dân tộc, tương thân tương ái và môi quan hệ giao lưu qua lại giữa các dân tộc đang được Đảng và Nhà nước quan tâm bồi đắp và phát huy. 

TIÊN LIÊN QUAN
image
Tin mới nhất
Thống kê truy cập
  • Đang online: 0
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1
  • Tất cả: 1
Đăng nhập
Footer chưa được cập nhật nội dung hoặc chưa được duyệt !